Để biết được năng lực của ngành cơ khí chế tạo ở Việt Nam trong thời điểm hiện tại, cần phải biết hiện trạng của công nghệ cơ bản, trong đó có công nghệ tạo phôi . Trong bài viết này, chúng tôi trình bày thực trạng công nghệ phôi ở Việt Nam sau khi tìm hiểu hiện trạng công nghệ qua một loạt các công ty sản xuất cơ khí tiêu biểu. Để đáp ứng yêu cầu của một loại máy trong tương lai gần, bài báo cũng giới thiệu xu hướng phát triển công nghệ phôi trong ngành cơ khí chế tạo ở Việt Nam giai đoạn 2011-2020
I. Lịch sử hình thành và phát triển của ngành cơ khí chế tạo ở Việt Nam.
Ngành cơ khí chế tạo ở Việt Nam được xây dựng từ năm 1956, đến nay đã được 53 năm, tuy nhiên đã trải qua gần 20 năm do cuộc chiến tranh ác liệt của Mỹ tiến hành. Tuy nhiên nhờ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước ta. được sự ủng hộ hết mình của tất cả các nước trong khối xã hội chủ nghĩa do Liên Xô cũ đứng đầu xây dựng nhiều nhà máy cơ khí khá lớn, nằm rải rác khắp các tỉnh miền Bắc Việt Nam. Nhiều nhà máy đã và đang là niềm tự hào của các ngành công nghiệp nước ta, nó đã góp phần không nhỏ vào công cuộc xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và làm hậu phương vững chắc cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Tiêu biểu là các nhà máy cơ khí như: Công ty Cơ khí Hà Nội, Công ty Diesel Sông Công, Công ty Cơ khí Trung tâm Cẩm Phả, Công ty Cơ khí Ô tô Vườn Cấm, Công ty Đóng tàu Bạch Đằng, Công ty Đóng tàu Hạ Long,… Và hàng trăm nhà máy cơ khí lớn nhỏ của Công nghiệp Quốc phòng và một số ngành kinh tế khác. Sau năm 1975, khi đất nước thống nhất, ta đã mua lại một số công ty cơ khí do địch để lại ở miền Nam Việt Nam, trong đó nổi bật nhất là công ty chế tạo động cơ và công ty Diesel nhỏ Vikino Vinappro ở Biên Hòa và các công ty sửa chữa cơ khí thuộc ngụy quyền như Z751, Xưởng đóng tàu Bason. ... T
ừ năm 1975 đến nay chúng ta không đầu tư nhiều cho sản xuất cơ khí, ngoại trừ một số ngành công nghiệp dầu khí, công nghiệp cao su do yêu cầu chế tạo các bộ phận hoặc thiết bị tự chế cho mình nên họ phải trang bị một lượng máy công cụ nhất định. Nhìn chung, ngành sản xuất cơ khí hiện nay đang quản lý một số lượng máy công cụ khoảng 50.000 chiếc. Phần lớn các thế hệ máy công cụ từ năm 1970 trở về trước, nghĩa là hệ thống điều khiển chủ yếu gắn liền với hoạt động điện của công nhân thủ công. Kích thước gia công từng chi tiết do công nhân quyết định. Vì vậy khó đạt được độ ổn định về độ chính xác khi gia công. Có rất ít máy công cụ được gắn thiết bị đo tích cực. Gần đây nhiều công ty đã trang bị cả một số máy tiện, máy phay và hệ thống điều khiển tự động của CNC, nhưng nó không có vai trò quan trọng trong sản xuất. Đây là bức tranh phản ánh thực trạng ngành cơ khí chế tạo ở Việt Nam, nó không chỉ yếu mà còn thiếu.